Logo

“CÓ LẼ TÔI VẪN LÀ MỘT THẦY GIÁO"

01/08/2023|.554
.

Năm 1990, trả lời phỏng vấn nhà báo kiêm sử gia người Mỹ Stanley Karnow, phóng viên tờ New York Times, tác giả cuốn sách “Vietnam: A history”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: “Nếu không trở thành người lính, có lẽ tôi vẫn là một thầy giáo, có thể dạy môn Triết học hoặc Lịch sử”.

 

Câu trả lời của Đại tướng đã nhắc lại quá khứ là giáo viên Trường tư thục Thăng Long trong 5 năm, từ năm 1935 đến 1940. 

Trong hồi ký “Từ nhân dân mà ra”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã kể lại buổi dạy học cuối cùng của mình ở Trường tư thục Thăng Long trước khi ra nước ngoài hoạt động bí mật theo quyết định của Đảng, tháng 5-1940. Theo đó, tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở Đông Dương, thực dân Pháp thủ tiêu nốt chút quyền tự do, dân chủ mà Đảng ta lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành được thời kỳ Mặt trận Bình dân ở Pháp lên nắm quyền. Các tổ chức hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp của Đảng lúc đó đều phải rút vào hoạt động bí mật. Tháng 4-1940, đồng chí Hoàng Văn Thụ, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng nhắn đồng chí Võ Nguyên Giáp lên Chèm nhận nhiệm vụ mới. Tại đây, đồng chí Hoàng Văn Thụ cho biết, theo quyết định của Trung ương Đảng, đồng chí Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp sẽ vượt biên giới sang hoạt động tại Trung Quốc. Vài ngày sau, trong buổi gặp lại giao nhiệm vụ trước khi lên đường, đồng chí Hoàng Văn Thụ nhắc đồng chí Võ Nguyên Giáp: Ra nước ngoài lần này có thể sẽ gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc, cần hỏi xem Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông hiện đang hoạt động ra sao? Phát xít Nhật sớm muộn cũng sẽ chiếm Đông Dương, tình hình Đông Dương sẽ nhiều biến động lớn, cách mạng cần chuẩn bị lực lượng quân sự để phát động chiến tranh du kích…

Trong những ngày chuẩn bị để ra nước ngoài hoạt động, thầy giáo Võ Nguyên Giáp tranh thủ vào thư viện nhà trường mượn “Bách khoa toàn thư” để đọc thêm phần về vũ khí, nhất là những vũ khí cho chiến tranh du kích như súng trường, lựu đạn; đồng thời, vốn là giáo viên dạy Lịch sử, anh tranh thủ nghiên cứu kinh nghiệm của cuộc khởi nghĩa Lê Lợi chống lại nhà Minh, kinh nghiệm chiến tranh du kích của nhân dân Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, kinh nghiệm chiến tranh du kích của nhân dân Tây Ban Nha chống lại cuộc xâm lược của Napoleon.

Trong những năm tháng dạy ở Trường tư thục Thăng Long, thầy giáo Võ Nguyên Giáp được học trò rất yêu quý. Theo hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhân cơ hội được giao dạy môn Lịch sử, thầy giáo Võ Nguyên Giáp đã khéo léo truyền bá tinh thần yêu nước vào học trò: “Tôi dạy Lịch sử, tôi tập trung vào những sự kiện tiêu biểu như phong trào Cần Vương hay những tấm gương đầy khí phách như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu… Ngoài những giờ dạy trên lớp, tôi còn tổ chức cho học sinh đi dã ngoại, đến Cửa Bắc, đứng trước quả đạn pháo của tàu chiến Pháp bắn vào thành, đến Ô Cầu Giấy, chỗ Henri Riviere, Francis Garnier tử trận. Ngay tại hiện trường, tôi đã giảng giải cho học sinh diễn biến của trận đánh và gieo vào lòng các em lòng căm thù giặc, ý chí quyết tâm cứu nước”. Nhiều học trò của thầy Giáp đã tìm đến chủ nghĩa cộng sản và được kết nạp Đảng. Vì vậy, có đôi ba học trò biết thầy giáo Võ Nguyên Giáp sắp đi làm nhiệm vụ Đảng giao.

Một buổi chiều thứ sáu đầu tháng 5-1940, thầy giáo Võ Nguyên Giáp rời khỏi ngôi nhà nhỏ có người vợ - người đồng chí Nguyễn Thị Quang Thái và cô con gái nhỏ chưa đầy tuổi Võ Hồng Anh để đến trường. Ra khỏi nhà một quãng, anh ngoái lại nhìn ngôi nhà, nhìn thật lâu vì biết chuyến đi ra nước ngoài lần này chưa biết bao giờ mới trở về. Theo lịch dạy của nhà trường, lẽ ra hôm sau (thứ bảy), thầy Võ Nguyên Giáp vẫn có tiết giảng nhưng anh đã sắp xếp dạy dồn cả chương trình ngày thứ 7 vào thứ 5 và thứ 6 để có một khoảng cách hai ngày (thứ bảy và chủ nhật) không phải đến trường. Anh đã biên sẵn một lá thư gửi giám đốc nhà trường, nói là về quê Quảng Bình rồi bị mệt nên chưa ra Hà Nội được. Thư này, gia đình anh sẽ gửi từ Quảng Bình ra, sau khi Võ Nguyên Giáp đã đi khỏi Hà Nội.

Năm giờ chiều, buổi dạy cuối cùng kết thúc. Thầy giáo Võ Nguyên Giáp lững thững đi về phía Hồ Tây như một người dạo mát. Hoa phượng nở đỏ trên vòm cây. Tiếng ve sầu kêu râm ran. Anh vừa đi vừa để ý xem có bị mật thám Pháp theo dõi không. May sao, chiều hôm đó không thấy bóng dáng bọn chúng. Người vợ trẻ Nguyễn Thị Quang Thái ẵm cô con gái nhỏ Hồng Anh đứng đợi để chia tay chồng ở một gốc cây ven đường Cổ Ngư (đường Thanh Niên hiện nay). Quang Thái rơm rớm nước mắt, thi thoảng lại phải nhìn ra phía hồ kẻo người qua đường để ý. Võ Nguyên Giáp dặn người vợ trẻ đợi con cứng cáp rồi gửi nhờ ông bà nuôi dưỡng để đi hoạt động bí mật... Giờ chia tay đã đến, đồng chí giao thông viên của Đảng xuất hiện, dùng xe tay chở Võ Nguyên Giáp đến điểm hẹn ở một con hẻm cuối đường Yên Phụ. Sáng hôm sau, đồng chí Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp ra ga Đầu Cầu, bắt xe lửa đi Lào Cai để từ đó vượt biên sang Trung Quốc.

Cuộc chia tay đó cũng là lần cuối cùng Võ Nguyên Giáp được gặp người vợ - người đồng chí Nguyễn Thị Quang Thái của mình. Sau khi chồng sang Trung Quốc một thời gian, đồng chí Nguyễn Thị Quang Thái cũng gửi con về quê nội Quảng Bình rồi đi hoạt động bí mật. Năm 1942, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và giam giữ tại nhà tù Hỏa Lò. Bệnh tật, đau yếu trong nhà tù khắc nghiệt, đồng chí đã hy sinh ngay tại Hỏa Lò đầu năm 1944.

Sau này, học trò Trường tư thục Thăng Long trong những lần tụ hội đều nhắc đến thầy Võ Nguyên Giáp với những kỷ niệm đẹp đẽ, ấm áp tình thầy trò. Ông Trần Văn Lan, học sinh khóa 1934-1938, năm 2002 đã viết bài đăng báo kể về thầy cũ: “Thầy tôi hiền lắm, không bao giờ mắng gắt học sinh… Khi phải tạm biệt mái trường Thăng Long, mái trường mà tôi hằng kính trọng, biết ơn trong suốt chặng đường đời của tôi, mỗi lần nhớ về mái trường cũ, được nghe nhắc đến tên thầy tôi trên báo, trên đài là tôi nghĩ ngay đến hình ảnh một trí thức có cặp mắt rất sáng, nước da trắng hồng, dáng đi khoan thai, nghiêm khắc mà bao dung, đức độ. Thầy đã dạy tôi những bài học về lòng tự hào dân tộc, về lòng yêu nước thông qua bộ môn Lịch sử. Nhưng cái quý nhất, đẹp nhất là thầy đã dạy cho tôi cái đạo làm người, phải hết lòng thương yêu học sinh, phải có cái tâm, cái đức của nghề “trồng người”.

TRẦN ĐỨC - Báo QĐND